Nguồn: Internet
Lịch sử phát triển của song sinh số
Tiền thân của khái niệm song sinh số có lẽ là câu chuyện về mô hình mô phỏng của tàu không gian Apollo 13 (1), được dùng để giả lập và thử nghiệm các khả năng quay về trái đất của tàu Apollo trước kế hoạch (khi bể chứa oxy của tàu bị nổ sau hai ngày tàu bay vào không gian, trong chuyến bay đến Mặt trăng vào tháng 4 năm 1970). Nhờ việc thử nghiệm và kiểm tra trước trên mô hình này mà các kỹ sư điều khiển mặt đất đã đưa ra giải pháp đúng đắn, giúp các phi hành gia điều khiển tàu trở về Trái đất thành công.
Khái niệm song sinh số được giới thiệu lần đầu tiên năm 2002 (2) trong buổi trình bày về quản lý vòng đời sản phẩm (PLM) của Michael Grieves. Trong mô hình song sinh số của Grieves, một hệ thống song sinh số được tạo thành bởi ba thành phần: không gian thực chứa đối tượng vật lý thực (sản phẩm), không giản ảo (số) chứa đối tượng ảo (số), và đường truyền dữ liệu từ không gian thực sang không gian ảo cũng như đường truyền thông tin từ không gian ảo sang không gian thực.
Mô hình song sinh số theo khái niệm của Grieves năm 2002 (2)
Khái niệm song sinh số được hoàn thiện hơn bởi K. Framling năm 2003 (2), theo đó song sinh số là một kiến trúc xây dựng từ các thành phần, mà mỗi thành phần của sản phẩm (bản gốc vật lý) đều có một thành phần ảo tương ứng với nó. Mỗi thành phần ảo phải bảo đảm sự đồng bộ với thành phần thực tương ứng, đồng thời cũng có đủ khả năng hỗ trợ việc thử nghiệm, chẩn đoán, bảo trì thành phần thực như là một song sinh số riêng rẽ. Ở thời điểm này, dữ liệu về các sản phẩm theo vòng đời của chúng chủ yếu thể hiện trên một lượng giới hạn các giấy tờ, văn bản liên quan, vì thế việc đồng bộ giữa thành phần thật và ảo vẫn còn chưa được trơn tru.
Chín năm sau đó, NASA đưa ra định nghĩa và lộ trình phát triển song sinh số nhằm nâng cao hiệu suất trong lĩnh vực hàng không. Định nghĩa của NASA năm 2012 (2) về song sinh số là một hệ thống mô phỏng xác suất tích hợp đa thang độ và nhiều khía cạnh vật lý của một phương tiện vận tải một hoặc hệ thống vật lý. Hệ thống mô phỏng này sử dụng mô hình tương đương vật lý chuẩn mực nhất có thể, cập nhật dữ liệu từ các cảm biến và lịch sử vận hành phương tiện vận tải (hệ thống vật lý) nhằm phản ánh cả vòng đời của phương tiện vận tải (hệ thống vật lý) ấy. Định nghĩa này về sau được tiếp tục phát triển thành định nghĩa chuyên dùng cho song sinh số máy bay (ADT).
Năm 2013, Không lực Mỹ lần đầu tiên đề cập và giải thích khái niệm song sinh số và mạch số (Digital thread) với ý nghĩa gần tương tự nhau (mà về sau nhiều nghiên cứu khác đã chỉ ra sự khác biệt của hai khái niệm này). Sự việc này đã thu hút sự quan tâm, chú ý với công nghệ song sinh số từ phía các lĩnh vực khác nhau bên ngoài lĩnh vực hàng không vũ trụ và công nghiệp quốc phòng, góp phần thuận lợi cho quá trình tích hợp nền sản xuất số và các hệ thống không gian số - vật lý, là các chìa khóa quan trọng của công nghiệp 4.0 và nền sản xuất thông minh.
Sự phát triển của công nghệ song sinh số theo thời gian và lĩnh vực có thể được hình dung phần nào khi ta nhìn vào biểu đồ dưới đây (2). Biểu đồ thể hiện số lượng các bài báo khoa học về song sinh số trong các lĩnh vực tương ứng theo thời gian xuất bản (tính đến tháng 7/2019), được dày công thống kê bởi tiến sĩ Barbara Rita Barricelli và các đồng nghiệp. Các con số bên trong biểu đồ thể hiện số hiệu của mỗi tài liệu được đánh số bởi nhóm thống kê. Có thể thấy rằng, trong 4 năm gần đây song sinh số đang được chú trọng quan tâm trong lĩnh vực sản xuất và y học chính xác.
Biểu đồ thể hiện số lượng các ấn bản về song sinh số trong các lĩnh vực (2)
Các đặc tính quan trọng của song sinh số
Đến nay, thế giới vẫn chưa có một khái niệm thống nhất, chuẩn mực cho song sinh số. Mỗi lĩnh vực, mỗi ứng dụng lại có một khái niệm riêng, và có thể tương đối cụ thể cho song sinh số tương ứng. Tuy vậy, thông qua việc phân tích các công nghệ trong hơn 100 các bài báo khoa học, nhóm nghiên cứu của TS. Barbara đã chỉ ra các đặc tính chung quan trọng sau đây của song sinh số:
Một mô hình song sinh số cho đối tượng là một dây chuyền sản xuất (4)
Ngoài những đặc tính thuần túy liên quan đến việc xây dựng hệ thống song sinh số như kể trên, cũng cần phải nhắc đến một đặc điểm chung và cũng khá quan trọng, đó là việc sử dụng kỹ thuật hình ảnh 3D và/hay công nghệ thực tế ảo nhằm thể hiện bản sao số trong quá trình tương tác với người quan sát hoặc người điều khiển hệ thống. Hình thức thể hiện 3D hay thực tế ảo làm cho bản sao số trở nên sinh động, trực quan, và góp phần hoàn thiện công nghệ song sinh số, đúng như tên gọi của nó.
Công nghệ song sinh số nhà máy điện
Trong lĩnh vực hệ thống điện, đặc biệt là nhà máy điện, đã và đang có nhiều phòng nghiên cứu và doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ song sinh số, điển hình như: Phòng thí nghiệm năng lượng quốc gia và Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne thuộc Bộ năng lượng Mỹ, các tập đoàn năng lượng lớn như General Electric (GE), SIEMENS, ABB, MITSUBISHI, hoặc các công ty như AVEVA, OVATION, TATA, TOSHIBA.
Trong số đó, bài viết này sử dụng ví dụ minh họa về song sinh số của General Electric (GE) là nơi phát triển công nghệ song sinh số nhà máy điện khá sớm, từ trước 2016. GE đã đưa ra mô tả song sinh số cụ thể cho nhà máy điện, như được thể hiện trong hình và diễn giải dưới đây (5):
Mô hình song sinh số tổ máy phát của GE (5)
Song sinh số nhà máy điện GE là một tập hợp có tổ chức của các phương pháp dựa trên mô hình vật lý và kỹ thuật phân tích tiên tiến, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, nhằm thể hiện, mô hình hóa trạng thái hiện tại của tất cả bộ phận của nhà máy điện, ở các phương diện về nhiệt, cơ khí, điện, hóa, cơ lưu chất, vật liệu, tuổi thọ, kinh tế và thống kê. Mô hình song sinh số GE cũng là đại diện chính xác của nhà máy dưới một tập hợp các điều kiện biến thiên liên quan đến vận hành - hỗn hợp nhiên liệu, nhiệt độ môi trường, chất lượng không khí, độ ẩm, phụ tải, mô hình dự báo thời tiết, và định giá của thị trường điện. Mô hình song sinh số liên kết với dữ liệu cảm biến từ nhà máy, cho phép dự báo các thông số vận hành, đánh giá các tình huống, chi phí cơ hội, cũng như nâng cao hiệu suất của nhà máy.
Các kỹ thuật trí tuệ nhân tạo được sử dụng trong công nghệ song sinh số nhà máy điện GE là: Nhận dạng mẫu, các mô hình học giám sát/không giám sát, phân tích dữ liệu phi cấu trúc, phân tích dữ liệu đa phương thức, mạng tri thức. Hình dưới đây trình bày quá trình đồng bộ hóa bản sao số với nhà máy điện thông qua kỹ thuật học có giám sát.
Bản sao số được đồng bộ thông qua kỹ thuật học có giám sát (5)
Công nghệ song sinh số GE cũng sử dụng các công nghệ cảm biến phù hợp với điều kiện môi trường khắc nghiệt trong nhà máy: cảm biến in được, cảm biến thời tiết/áp suất, cảm biến phân tích bộ phận nhà máy, cảm biến kiểm tra.
Có thể thấy rằng mô hình song sinh số nhà máy điện GE được mô tả không đi ra ngoài các đặc tính quan trọng đã được liệt kê ở phần trên. Bên cạnh đó, việc các phương diện, khía cạnh vật lý được xem xét và các ứng dụng của mô hình được cụ thể hóa trong mô tả của GE có thể cho ta một cái nhìn rõ ràng và trực tiếp hơn về song sinh số.
Thực hiện: Trần Huỳnh Ngọc
Tài liệu tham khảo: